SiamViet blog sưu tầm và trân trọng giới
thiệu bài viết của Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng về Phật giáo tại Thái Lan.
Phật Giáo tại Thái
Lan
Thái Lan (Thailand), tên cũ gọi là Siam (Xiêm-la), một
quốc gia nằm trong vùng Đông Nam châu Á.
Phía Bắc và Tây giáp với Miến Điện,
Đông Bắc giáp với Lào, Nam giáp với Mã Lai, và vịnh Siam giáp với Campuchia.
Thủ đô Bangkok, diện tích: 514.000 km2, dân số 60 triệu (thống kê năm 1999) (1),
mật độ dân cư: 108,4 người/km2. Ngôn ngữ chính là Thái ngữ, nhưng tiếng Anh và
tiếng Hoa (Tiều châu) cũng rất thông dụng.
Nguyên thủ quốc gia hiện
nay là Vua Bhumibol Adulyadej. Sau khi nền quân chủ chuyên chế kết thúc vào năm
1932, đất nước Thái Lan đã lật sang một trang mới. Là một quốc gia mà Phật giáo
được xem quốc giáo và là một nước có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng
chưa bao giờ biến thành một nước thuộc địa của các đế quốc châu Âu như các nước
láng giềng khác, Thái Lan đã có một nền công nghiệp phát triển vào cuối những
năm 80 nhờ những nguồn đầu tư từ nước ngoài. Thu nhập bình quân đầu người hiện
nay ở Thái Lan là trên dưới 2.000 đô la (2).
Phật giáo là quốc giáo của
Thái Lan (những tôn giáo nhỏ khác là Ky Tô giáo, Hồi giáo và Ấn giáo). Thái Lan
được biết đến như "vùng đất tự do", "quê hương của nụ
cười", "đất nước của những chiếc áo cà sa". Tên gọi cuối cùng
này đã mô tả một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái đang tôn thờ.
Lịch sử Thái Lan được chia
thành 4 thời kỳ qua các triều đại: Sukhothai, Ayutthaya, Thon Buri và
Rattanakosin (Bangkok). Thời kỳ đầu của triều đại Sukhothai (1237-1456), Phật
giáo (PG) đã được xem là quốc giáo của dân tộc Thái.
Hiện tại, tổng số 95% dân
chúng được ghi nhận là tín đồ PG, hầu hết là theo truyền thống Theravada. Theo
sự thống kê gần đây (1998) cho thấy, có trên 30.000 ngôi Chùa ở 75 tỉnh thành
của Thái Lan. Con số tăng sĩ Thái Lan không có con số nhất định mà tùy thuộc
vào mùa mỗi năm. Con số cao nhất được ghi nhận là 350.000 tăng sĩ hiện diện
trong mùa nhằm vào mùa kiết đông an cư của chư tăng Thái, từ tháng 7 đến tháng
9 mỗi năm. Ngoài những vị đã chính thức được truyền Cụ Túc giới (Upasamapada),
số còn lại là những tăng sinh tập sự hoặc tu gieo duyên, tuổi từ 6 cho đến 19,
con số này đông không thể thống kê được.
Nhiều nguồn tư liệu cho
rằng Phật giáo được truyền vào Thái Lan vào đầu thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch
(khoảng năm 241 tr TL) theo sau cuộc truyền bá Chánh pháp quy mô của nhà vua
Phật tử Asoka (A Dục) đến Tích Lan và Miến Điện. PG Thái Lan (PGTL) về sau còn
tiếp nhận thêm nhiều nhà truyền bá đến từ Miến Điện vào năm 1044 và các pháp sư
đến từ Tích Lan vào năm 1155. Hầu hết là theo truyền thống PG Theravada. Tuy
vậy, PG chỉ thực sự đặt lại nền móng, phát triển và ảnh hưởng sâu rộng vào xã
hội Thái Lan từ triều đại Sukhothai (1237-1456). Trong thời kỳ này có rất nhiều
vị vua tín ngưỡng Phật Pháp, xây dựng chùa chiền, ủng hộ việc đào tạo tăng tài
để phát triển Chánh pháp, thậm chí có nhiều vị xuất gia tu học luôn, như Vua
Ramkhamheng và Vua Lithai.
Đặc biệt, Vua Lithai là một
ông Vua Phật tử anh minh, từ ái, thương dân như con của mình, kể cả những kẻ
đối đầu với mình, những người chống lại Thái Lan. Ông đã có công xây chùa và
đúc tượng Phật rất nhiều trong thời ông trị vì. Những tượng đồng thật lớn hiện
nay vẫn còn tôn thờ ở Chùa Buddhajinarai, Chùa Phrarinatnahadhatu, Chùa
Sadassana v.v. đều được đúc từ thời của ông.
Tiếp đến là các triều đại
Ayudhya (1350-1766), Thonburi (1766-?) và triều đại Bangkok (1782-cho đến nay)
do vua Rama I thiết lập, PG đã tiếp tục phát triển mạnh trong mọi lĩnh vực. Đặc
biệt các vị Vua trong triều đại Bangkok, có nhiều vị đã xuất gia tu học và sáng
tác nhiều tác phẩm văn học PG giá trị để cống hiến cho đời.
Có thể nói triều đại
Bangkok là một triều đại ủng hộ cho PG phát triển mọi mặt. Nhất là Vua Rama V
(vua Mongkut) đã xuất gia tu học ở Chùa Bovoranives, ông đã tổ chức biên tập
lại Tam Tạng Thánh Điển PG, bằng tiếng Pali vào năm 1888, đến năm 1893 hoàn
thành với 39 quyển. Đây là một bộ Tam Tạng Thánh Điển PG đầu tiên trên thế giới
bằng tiếng Pàli được in trên giấy (trước đây chỉ viết trên lá bối). Bộ Tam Tạng
này sau đó được ấn tống ra rất nhiều để gởi tặng các PG trên thế giới. Nhà vua
cũng cho thành lập hệ phái Dhammayuttika gồm các tu sĩ tu hạnh đầu đà, vẫn còn
hoạt động cho đến ngày nay ở miền Đông Bắc, song song với hệ phái chính là
Mahanikaya là hệ phái của đa số tu sĩ Thái.
Đến năm 1934, Vua Rama VII
đã cho cải biên lại thành 45 tập, biểu trưng cho số năm hoằng pháp của Phật. Bộ
Đại Tạng này đến năm 1940, dưới triều đại của Vua Rama VIII, vị Tăng thống
Tissadeva đã tập hợp được hơn 200 vị tăng lầu thông ngôn ngữ Pali để phiên dịch
ra tiếng Thái. Cuối cùng bộ Đại Tạng Kinh tiếng Thái cũng đã hoàn tất vào năm
1952, gồm 70 tập, trong đó có 42 tập thuộc Tạng Kinh, 13 tập thuộc Tạng Luật và
25 tập thuộc Tạng Luận, sở phí in ấn công trình vĩ đại này được đóng góp của
toàn nhân dân và Chính phủ Thái vào lúc ấy.
Trong triều đại của Vua Bhulmibol
Adulyadej (Rama IX) từ 1946 đến nay, PG cũng phát triển đều đặn về các lĩnh vực
văn hóa, y tế và giáo dục. Đặc biệt, vị vua này đã ủng hộ cho công trình đưa
Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo (Tipitaka) vào cất giữ trong hệ thống điện tử
CD-ROM, công trình này bắt đầu thực hiện từ năm 1987 để kỷ niệm sinh nhật lần
thứ 60 của ông. Đến nay đã hoàn thành được bốn đĩa CD-ROM, gồm các thứ tiếng
Pali, Thái, Miến, Khmer và Tích Lan, tổng cộng có 115 quyển, 50.189 trang, 210
tỷ chữ ( mỗi đĩa chứa khoảng 500 triệu chữ). Địa chỉ vào xem hoặc thỉnh CD-ROM
này là: .
Chùa và tăng sĩ đóng một
vai trò rất quan trọng trong xã hội Thái trên 700 năm qua. Chúng ta sẽ lần lượt
tìm hiểu về những vai trò này của họ qua các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn
hóa và xã hội sau đây:
*
Về giáo dục
Tăng sĩ Thái Lan đã đóng
một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực này. Ngôi trường đầu tiên được thành
lập ở Thái Lan được xây dựng ngay trên khu đất của Chùa và những giáo viên đầu
tiên là tăng sĩ. PG đã nắm giữ vai trò này trong một thời gian dài cho đến
triều đại của Vua Chulalongkorn (Rama V) thì ngành giáo dục phổ cập chính thức
ra đời.
Các trường công lần lượt
được mở bên ngoài tu viện, các trường PG dần dần được tiếp quản bởi bộ giáo dục
Thái, điều này dẫn tới vị trí của tăng sĩ trong lĩnh vực giáo dục bị thu hẹp
dần. Các giáo viên thế gian cũng được thay thế và tăng sĩ hiện nay chỉ còn dạy
một ít môn học như giáo lý căn bản, công dân giáo dục....
Ngày nay, tuy vai trò của
PG không còn can thiệp nhiều vào ngành giáo dục phổ cập, nhưng những di sản của
PG để lại, vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn đứng vững trong lòng của dân tộc Thái.
Những tòa biệt thự đồ sộ của bộ giáo dục, những ngôi trường lớn, những tổ chức
từ thiện... phần lớn vẫn còn nằm trong khuôn viên của Chùa. Những ngôi trường
Trung học và Đại học có uy tín và danh tiếng, có nhiều tiêu chuẩn cao trong
việc học và dạy, đều gợi lại cho người ta nhớ đến một quá khứ tốt đẹp thông qua
sự hoạt động của tăng sĩ PG Thái.
*
Về kinh tế:
Phật giáo cũng đóng một vai
trò đáng kể trong môi trường kinh tế của người dân Thái. Nhiều lời Phật dạy về
cách chọn nghề chân chính và thực hiện công việc làm ăn chân chính, đã được áp
dụng rộng rãi trong mọi gia tầng của xã hội Thái, và người dân Thái biết làm
thế nào để duy trì một gia đình hạnh phúc, ổn định về kinh tế qua giáo lý của
nhà Phật.
Theo truyền thống, những
tăng sĩ Thái thường đóng vai trò người lãnh đạo trong các công trình lớn. Do
xuất phát từ trái tim từ bi, vô vị kỷ mà họ được xem là những nhà cố vấn và
giám sát công trình thành công nhất, chi phí được giảm xuống, những trục trặc,
trở ngại trong tiến trình xây dựng cũng ít xảy ra. Mặt khác, những chùa ở Thái
Lan cũng mở trường huấn nghệ cho dân chúng như bào chế thuốc Nam, thợ mộc, thợ
nề và nhiều ngành nghề thủ công khác. Nói chung, dân chúng đã nhận được nhiều
sự lợi lạc về kinh tế từ nhà Chùa và các tăng sĩ cũng luôn ý thức rằng bổn phận
của họ không chỉ có trách nhiệm giúp đỡ và chăm sóc đời sống tâm linh mà còn
quan tâm đến đời sống kinh tế cho người dân nữa.
*
Những lễ nghi:
Sinh hoạt tín ngưỡng PG
luôn là một phần quan trọng trong đời sống của người dân Thái, từ lúc mới chào
đời, trưởng thành, lễ cưới, ma chay... đều có liên quan đến chùa chiền và tăng
sĩ.
Lễ
Đặt Tên: Khi sanh con, cha mẹ
thường thỉnh y Quý Thầy đặt tên cho con mình, vì họ tin rằng tên được chọn từ
các Thầy sẽ vừa đẹp đẽ về mặt ngôn ngữ lẫn ý nghĩa. Tiếp đó là Quý Thầy sẽ làm
lễ đặt tên và tụng một thời kinh cầu an cho đứa bé.
Lễ Thọ Giới: Nghi thức thứ
hai này cũng rất quan trọng và bắt buộc đối với mọi thanh niên Thái, kể cả các
bậc vua chúa, khi họ ở vào giai đoạn trưởng thành, mười tám đến hai mươi tuổi.
Thông thường, họ vào Chùa tu tập ba tháng, một năm hoặc ba năm, tùy theo sở
thích và ước nguyện của mỗi người. Nhiều bậc cha mẹ muốn con cái của họ được dự
lễ thọ giới này trước khi lập gia đình hoặc khi bắt đầu một nghề nghiệp chính thức.
Vì rằng, buổi lễ này sẽ giúp cho người ấy có được một tâm hồn rộng lớn hơn được
kèm với giới luật, những lời phát nguyện trong buổi lễ này sẽ khiến cho người
ấy phải trân trọng và gìn giữ suốt một đời người. Nó là nền tảng vững chắc cho
đời sống tâm linh của người dân Thái.
Theo truyền thống, buổi lễ
diễn ra sau một thời gian ngắn người ấy thực tập trong Chùa. Lễ truyền giới
được tổ chức trong suốt tháng bảy của mỗi năm. Vào ngày trước khi thọ giới, vị
thanh niên ấy được cạo đầu và được mặc một bộ y màu trắng. Quý Thầy lớn tuổi
được cung thỉnh về nhà của vị ấy để tụng kinh cầu an và tiếp nhận sự cúng
dường. Bạn bè và những người thân cũng được phép tham dự buổi lễ đặc biệt này
để cho vị ấy tạ từ trước khi bước vào đời sống mới.
Vào ngày lễ truyền giới, vị
Thầy tương lai này được hướng dẫn đi kinh hành vòng quanh tu viện trước khi
được đưa vào bên trong điện Phật mà chư giới sư đã hiện diện sẵn. Sau khi trải
qua một loạt kiểm tra về những điều luật cần thiết của một tăng sĩ, vị ấy được
các bậc trưởng lão giới sư tuyên bố là các vị chính thức trở thành tăng sĩ PG,
cho phép gia nhập vào tăng đoàn và ngay lập tức được trao cho ba chiếc y màu
vàng nghệ, một chiếc bình bát và những vật dụng cần thiết của một người tăng
sĩ.
Sau khi thọ giới Tỳ kheo
xong, vị ấy sống tinh cần, thanh tịnh và luôn được đào tạo một cách nghiêm khắc
để có thể kiểm soát thân và tâm của mình theo giới luật đã thọ. Vị ấy phải sống
nghiêm túc theo giới luật như một tăng sĩ thật sự trong thời gian lưu trú trong
tu viện. Tuy nhiên, vị ấy có thể trở về với thân phận của một người thế tục ở
bất kỳ thời điểm nào mà vị ấy muốn.
Lễ
Cưới: Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng
trong hôn lễ, buổi lễ sẽ giúp cho hai người có một sự kết hợp thiêng liêng
trong lễ cưới.
Thông thường, các Tỳ kheo
được cung thỉnh đến tụng kinh cầu an trong căn nhà của đôi tân hôn ấy vào buổi
chiều trước lễ cưới của họ. Buổi sáng hôm sau cặp vợ chồng này đem thức ăn cúng
dường cho chư Tăng trước khi họ tiến hành hôn lễ. Chư Tăngtiếp đó sẽ đọc kinh
cầu phúc và rải nước thánh lên cô dâu và chú rễ. Những quan khách tham dự lễ
cưới đổ nước thánh từ một vỏ sò xuống bàn tay của đôi vợ chồng. Những bàn tay
khác của quan khách được chống lại thành đóa sen búp để tỏ lòng tôn kính và
chúc mừng trong khi đôi tân hôn quỳ xuống trên một chiếc ghế thấp, mỗi người
được đeo một vòng hoa liên kết với nhau, để tượng trưng cho sự thắt chặt cuộc
sống tương lai của họ.
Lễ
Tang: Lễ nghi này cũng rất quan trọng trong
đời sống của người dân Thái. Tang lễ được tổ chức tùy theo phong tục của từng
địa phương, nhưng phần lớn vẫn được áp dụng theo nghi thức Phật giáo.
Sau khi một người đã qua
đời, thông thường một nghi thức tắm và thay đồ xảy ra vào buổi trưa đầu tiên.
Vị Thầy chủ lễ đến làm phép và rải nước hoa lên nhục thân của người chết, một
sợi thiêng liêng được kéo qua ba lần trên thi thể người quá cố, rồi cắt bỏ,
tượng trưng cho sợi dây ràng buộc của tham ái, sân hận và si mê nay không còn
nữa. Thi hài được nhập tẩm liệm vào buổi chiều và được trang hoàng với nhiều vòng
hoa tươi xung quanh quan tài. Quý Thầy và bạn bè thay phiên nhau tụng kinh cầu
siêu đến lúc lễ hỏa táng hay địa táng xảy ra. Vào ngày cuối của tang lễ, một
buổi lễ cúng dường trai tăng được tổ chức để hồi hướng công đức siêu độ vong
linh.
Sau lễ hỏa táng, tro cốt
của người mất được thu nhặt lại, một ít được đặt vào bình đựng cốt, thờ tại nhà
hoặc Chùa và phần còn lại được rải xuống biển hay được ném vào trong gió, biểu
hiện việc làm lợi ích cho môi trường xung quanh.
Mỗi năm đến ngày giỗ của
người mất, Quý Thầy và bè bạn được mời đến nhà để tụng kinh siêu độ, ban phúc
lành lên tro cốt của người mất và trong dịp này những lễ cúng dường cho Quý
Thầy cũng được tổ chức để tạo phước duyên cho người quá cố.
Phật
giáo Thái với công tác từ thiện xã hội
Được thấm nhuần từ lời dạy
từ bi của Đức Phật, các tăng sĩ PG Thái đã trở nên tích cực, để hết tâm trí vào
các vấn đề phúc lợi xã hội.
Một trong những vị sư nổi
tiếng về công tác này là Hòa thượng Chamroon, Chùa Thamkrabok ở tỉnh Saraburi
thuộc miền Trung Thái Lan, vị này có uy tín trong việc điều trị khỏi chứng
nghiện ma túy. Vì nhìn thấy cái khổ triền miên của người nghiện mà Ngài đã cố
công nghiên cứu và bào chế ra một loại dược thảo để chữa bệnh và đã thành công.
Những kết quả gần đây cho thấy rằng sự điều trị của Trung tâm Ngài có hiệu quả
hơn 70%. Hiện tại, nhiều ngàn người đã đổ xô về Trung tâm cai nghiện ma túy của
Ngài để tìm sự giúp đỡ, trong đó người ta thấy có cả những con nghiện đến từ Mỹ
và châu Âu. Điều đáng kể là tiền lệ phí chữa bệnh và ở nội trú với giá rất
thấp. Nhờ thế mà Trung tâm của Ngài ngày càng đông thêm. Chính quyền Thái Lan
đã ủng hộ và tài trợ cho Trung tâm này trong nhiều năm qua. Địa chỉ web page
là: http://www.thamkrabok.org.au
Các tăng sĩ PG không chỉ
đóng vai trò điều trị về thân bệnh mà họ còn phục vụ xuất sắc trong lĩnh vực
chữa khỏi tâm bệnh. Những tăng sĩ Thái Lan được xem là những nhà tư vấn về tâm
lý hay nhất xưa nay ở xứ sở này.
Ngôi
chùa và đời sống của người dân Thái
Chùa, một kho tàng an toàn
nhất: Người dân Thái Lan thường cảm thấy bất an khi giữ những đồ quý giá trong
nhà của họ, vì thế họ đã gởi vào trong Chùa và xin phép vị trụ trì lưu trữ
những vật quý ấy trong Chùa.
Chùa cũng là nơi an toàn:
để bảo trì bộ Đại Tạng Kinh viết trên lá bối bằng tiếng Pàli, những bộ sách
lịch sử của các Vương triều của Thái Lan, những sách có giá trị thời cổ đại của
ngành thương mãi của Thái Lan được viết trên lá cau, lá dừa... vẫn còn bảo trì
cho đến ngày nay.
Chùa là nơi để bảo tồn: những
pho tượng Phật vô giá của dân tộc Thái, phần lớn tượng được đúc bằng vàng, đồng
và ngọc. Theo tín ngưỡng của người dân Thái, những pho tượng lâu đời này có một
sức mạnh tâm linh vô cùng đặc biệt, đã có thể báo trước những sự kiện nguy hiểm
và tai họa sắp xảy ra cho người dân Thái.
Chùa, nơi tạm trú: Trong
quá khứ, khi chưa có nhà trọ hay khách sạn, người du khách từ nơi này đến nơi
khác, không có nơi tạm trú một đêm, trong hoàn cảnh đó chỉ có Chùa là nơi họ
hướng về. Cánh cửa Chùa luôn rộng mở cho những ai cần đến, luôn sẵn sàng giúp
đỡ cho tất cả mọi người dân. Nhiều người nghèo ở nông thôn có con đi học ở
Bangkok hay ở những thành phố khác, không có tiền trả ký túc xá, họ đã gởi con
vào tạm trú trong Chùa.
Chùa, nơi hội họp: Chùa ở
Thái Lan luôn luôn có một phòng hội họp rộng lớn và một sân chơi thể thao. Mỗi
khi có hội họp trong làng xã đó, họ thường tập trung về Chùa. Sân thể thao được
sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, ngoài việc chơi thể thao cho thanh thiếu
niên trong vùng, còn là nơi để tổ chức bầu cử quốc hội, nơi tuyển quân ra trận,
nơi chích ngừa, nơi có những cuộc meeting lớn....
Chùa là một trung tâm văn
hóa: Chùa là nơi bảo tồn những bài hát điệu nhảy, những vở kịch truyền thống có
giá trị của Thái Lan. Chùa cũng là nơi duy trì và tồn lại đủ các kiểu kiến
trúc, điêu khắc, chạm trổ của Thái Lan từ xưa cho đến nay.
Một trong ngôi chùa nổi
tiếng nhất của Thái Lan là ngôi Chùa Ngọc Phật (The Emerald Buddha Wat) tọa lạc
tại bờ đông trên bờ sông Chao Phraya, trong khu dinh thự tráng lệ của Hoàng gia
Thái. Ngôi chùa này được Vua Rama đệ nhất xây dựng vào năm 1782 theo kiến trúc
của Thái lan, để tôn thờ Đức Phật, và cũng là nơi tu hành, lễ bái của đức vua
và quần thần của hoàng gia.
Một
số tổ chức Phật giáo tại Thái Lan
Thái Lan được biết đến như
là một vùng đất tự do, do đó có nhiều tổ chức Phi Chính phủ đã được thành lập
tại đất nước này, trong đó có hai tổ chức Phật giáo Thế giới đều được đặt trụ
sở chính tại nơi đây, đó là World Buddhist Followship (viết tắt: WBF, Hội Liên
Hữu Phật Giáo Thế Giới) và International Network of Engaged Buddhists (viết
tắt: INEB, tạm dịch: Tổ Chức Quốc Tế Các Phật Tử Dấn Thân).
Về Hội WBF được thành lập
vào ngày 25 tháng 5 năm 1950 tại Tích Lan với năm chủ trương như sau: 1) Khuyến
khích hội viên học và tu theo lời Phật dạy; 2) Siết chặt tình hữu nghị, đoàn
kết và thống nhất giữa các quốc gia Phật giáo; 3) Đẩy mạnh công tác truyền bá
giáo lý mầu nhiệm của Phật; 4) Tổ chức và đưa các hoạt động Phật sự vào trong
các lĩnh vực như xã hội, giáo dục, văn hóa; 5) Mang lại hòa bình, an lạc và
hạnh phúc đến cho hành tinh này và sẳn sàng liên kết với những tổ chức khác có
cùng đường hướng.
Để đạt được mục đích trên,
WFB đã cho thành lập nhiều chi nhánh trên khắp thế giới và một Hội đồng trị sự
gồm các ban như: Ban Giáo dục, in ấn và nghệ thuật, Ban Hoằng pháp, Ban Từ
thiện, Ban Đoàn kếât, Ban Tài chánh.... Trong 30 năm hoạt động, với sự ủng hộ
nhiệt thành của các Chính phủ Tích Lan, Miến Điện và Thái Lan, từ 27 chi nhánh
ban đầu đã phát triển lên đến 123 chi nhánh, từ 39 quốc gia trên khắp các châu
lục. Về trụ sở Trung ương được đặt tại Tích Lan từ năm 1950 đến 1958, sau đó
được dời qua Miến Điện, sau sáu năm (1958-1963) đặt tại Miến, trụ sở một lần
nữa lại chuyển qua đến Thái Lan từ năm 1963 đến nay. (Địa chỉ liên lạc của hội
là: World Fellowship of Buddhists, 616 Benjasiri Park, Soi Medhinivet off Soi
Sukhumvit 24, Sukhumvit Road, Bangkok 10110, Thailand. Tel: 662.661.128489.
Fax: 662.661.0555). Hội WBF vừa tổ chức đại hội định kỳ lần thứ 20 tại Úc châu
và theo kế hoạch Đại hội lần thứ 21 của WFB sẽ được tổ chức tại Tích Lan vào
năm 2000. (Xin vào địa chỉ sau đây để biết thêm về hiệp hội này:
)
Về Hiệp hội INEB do đạo hữu
người Thái Sulak Sivaraksa kết hợp với Hòa thượng người Nhật Bản Teruo Muruyama
thành lập vào tháng hai năm 1989 tại Bangkok theo sau cuộc Hội nghị khoáng đại
gồm nhiều đại biểu Phật giáo từ mười ba quốc gia như Úc, Mỹ, Canada, Ý, Đức,
Anh, Pháp, Bangladesh, v.v. trên khắp thế giới về dự. Hiệp hội đã cung thỉnh
Đại lão Hòa thượng người Thái Buddhadasa, Đức Dalai Lama, người Tây Tạng, Thiền
sư người Việt Thích Nhất Hạnh và Hòa thượng Cambốt Maha Ghosananda vào hàng
chứng minh và cố vấn tinh thần cho Hội.
Chủ trương của INEB là kết
hợp với nhiều tổ chức Tôn giáo trên thế giới để tổ chức các cuộc Hội Thảo về xã
hội và tôn giáo, hầu đem lại lợi ích thật sự cho xã hội; Cung cấp những tin tức
mới về PG và hỗ trợ cho các nước PG nghèo ở trong vùng Nam Á và Đông Nam châu
Á; Vận động các quốc gia giảm bớt chính sách hà khắc của họ đĨi với tôn giáo và
dân chủ; Bảo trợ và tổ chức các buổi hội thảo xung quanh chủ đề giảm thiểu khổ
đau thông qua các sinh hoạt xã hội, chính trị, kinh tế, sinh thái v.v. với mục
tiêu tốt đẹp trên, từ 36 hội viên lúc ban đầu, đến nay INEB đã có hơn 400 hội
viên từ 33 quốc gia trên khắp thế giới. INEB còn cho phát hành Nguyệt san Seeds
of Peace (Hạt giống của Hòa bình) và mở một trang báo điện tử khác để phổ biến
chủ trương và giáo lý. Địa chỉ truy cập là: http://www.bpf.org/ineb.html
Kết
luận:
Phật giáo đã đóng góp tích
cực vào trong đời sống của người dân Thái không những về mặt vật chất, kinh tế
mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của họ. Sự hiểu biết và thấm nhuần giáo lý
nhân quả nghiệp báo và nhiều giáo lý cốt lõi của PG, đã giúp cho người dân Thái
biết sống và sống theo khuôn khổ của Chánh pháp. Bản chất hiền hòa, từ ái,
khiêm cung và nhã nhặn của người dân Thái đã thể hiện một phần nào đó từ sự
thực hành đạo lý của họ.
Sự thừa nhận và tán dương
PG vai trò của nó trong xã hội Thái là một điều cần thiết và không cường điệu
để nói lên điều ấy. Thực vậy, Phật giáo đã ăn sâu vào lòng của dân tộc Thái, và
đã có mặt trên khắp mọi ngã đường của xứ sở này./.
Tổng hợp theo các tài liệu :
- Insight Guide Thailand/Singapore/1989
- Images of Thailand/Hong Kong/1990
- Bangkok/Singapore/1994
- Thailand Handbook/Bangkok/1999
- Today Magazine, Bangkok/January 1999
- Images of Thailand/Hong Kong/1990
- Bangkok/Singapore/1994
- Thailand Handbook/Bangkok/1999
- Today Magazine, Bangkok/January 1999
Thích Nguyên Tạng - quangduc.com
Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
Melbourne, Úc Châu 2001
Tỳ Kheo
Thích Nguyên Tạng, sinh năm 1967 tại Vĩnh Thái, thành phố Nha Trang. Tốt nghiệp Cử nhân Anh Văn (1995), Cử nhân Phật Học (1997). Bắt đầu viết báo từ năm 1990
và có nhiều bài về " Phật giáo thế giới” đăng trên
các báo Pháp Bảo (Úc), Pháp Âm
(Na-Uy), Giao Ðiểm, Hoa Sen, Phật Học (Hoa Kỳ). Hiện là Phó Trụ Trì Tu Viện
Quảng Ðức, kiêm Chủ biên Trang nhà điện
tử Phật giáo www.quangduc.com tại thành phố Melbourne, Úc Châu. Tác phẩm đã in: Một
Tôn Giáo Hiện Ðại (tuyển tập
Phật giáo quốc tế) xb 1995 tại Sài Gòn; Hỏi
Hay Ðáp Ðúng (song ngữ Anh-Việt,
xb 1997 và tái bản năm 2000); Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma, vị sứ giả của hòa bình (xb
2000);Chết và Tái Sinh (xb
2000 tại Sài Gòn, tái bản lần thứ 2 tại Úc (2/2001) và lần thứ 3 tại Mỹ (
8/2001); Tác phẩm sẽ in: Một Ðạo
Phật đơn giản ; Lịch sử Phật Giáo Úc-Ðại-Lợi.
SiamViet blog cập nhật:
Ghi chú:
(1) Số liệu thống kê dân số
TL của Cơ quan Thống kế quốc gia năm 2010 là gần 66 triệu.
(2) Thu nhập bình quân đầu
người của TL năm 2011 là 4.972 USD, theo WB.